Hướng tiếp cận Thần thoại học

Lịch sử

Thuyết thần thoại lịch sử (euhemerism) đã có từ thời cổ đại với quan niệm thần thoại là những tường thuật bóp méo sự kiện lịch sử có thật. Thuyết này lấy theo tên nhà thần thoại Euhemerus (khoảng năm 20 TCN), người cho rằng các vị thần tiến hóa từ truyền thuyết về con người mà ra. Ông và các triết gia khác nỗ lực không loại bỏ di sản văn hóa nhưng diễn giải lại một cách hợp lý.[38] Một nguyên nhân là thời xa xưa những người kể chuyện (truyền khẩu) nhiều lần điều chỉnh và mở rộng nội dung khiến một số nhân vật đạt tới địa vị thần thánh.[39] Ví dụ khác vào thế kỷ 19, nhà thần thoại học Thomas Bulfinch đề xuất thần gió Aíolos bắt nguồn từ một vị vua lịch sử đã dạy dân mình cách chèo thuyền.[40] Nhà sử học Herodotos (thế kỷ 5 TCN) và triết gia Pródikos đề xuất những cách giải thích tương tự.[39]

Phúng dụ thiên nhiên

Nửa đầu thế kỷ 19, đặc biệt vào thời Lãng mạn Đức bén rễ ý tưởng thần thoại cơ bản là những câu chuyện về giới tự nhiên. Theo đó, thần thoại mô tả khí tượng và vũ trụ còn các vị thần đại diện thế lực tự nhiên. Quan điểm này càng trở nên phổ biến và có sức ảnh hưởng lớn thông qua nhà ngữ văn người Đức Max Müller (1823-1900). Theo Müller, thần thoại nảy sinh là do tên các hiện tượng tự nhiên đã bị hiểu nhầm theo thời gian. Ví dụ câu chuyện người anh hùng đánh bại quái vật chỉ đơn giản là ban ngày xua tan bóng đêm. Tuy nhiên, vấn đề chưa có lời giải là vì sao các hiện tượng tự nhiên có thể quan sát tương đối rõ ràng lại cần phải phức tạp hóa quá nhiều thành các phúng dụ xa cách đến vậy. Từ đó đưa đến ý kiến cho rằng không phải tất cả thần thoại đều mô tả thiên nhiên.[41]

Khoa học nguyên thủy

Edward Burnett Tylor

Thần thoại nghiễm nhiên được coi là có liên hệ với tôn giáo, mà mối quan hệ giữa tôn giáo và khoa học vẫn nằm trong vòng tranh cãi, kết quả là tranh luận về mối quan hệ giữa thần thoại và khoa học cũng không có hồi kết. Thần thoại được coi là ngang hàng với khoa học, thậm chí còn được đánh đồng với khoa học, là tiền thân của khoa học.[42] Một lý thuyết lỗi thời nhưng có giá trị đặc biệt là của Andrew Lang (1844-1912) và nhà nhân chủng học nổi tiếng Edward Burnett Tylor (1832-1917). A. Lang phản đối thần thoại phúng dụ tự nhiên, đã coi thần thoại là một dạng của khoa học nguyên thủy, có tính căn nguyên hoặc giải thích.[43] Tylor cũng coi thần thoại là nỗ lực tiền khoa học của bộ óc nguyên thủy để giải thích sự tồn tại của con người và môi trường xung quanh.[44][45][46] Cụ thể, Tylor đưa ra mô hình từ thấp đến cao: thần thoại → tôn giáo → khoa học → triết học một cách chi tiết. Đối với Tylor, triết học có hai mặt: nguyên thủy và hiện đại. Triết học nguyên thủy đồng nghĩa với tôn giáo nguyên thủy, còn khoa học không tồn tại. Ngược lại là triết học hiện đại. Tôn giáo hiện đại không còn tính thần thoại mà bao gồm siêu hình họcđạo đức, điều mà tôn giáo nguyên thủy thiếu. Theo mô hình này, linh hồn trong tôn giáo hiện đại sẽ là phi vật chất và chỉ giới hạn ở các cá nhân, còn linh hồn trong tôn giáo nguyên thủy là vật chất.[47]

Mô hình phân cấp trên là quan điểm điển hình ở thế kỷ 19 với ý tưởng cho rằng thần thoại đại diện mang tính biểu tượng về thế giới tự nhiên.[48] Tuy nhiên, không phải tất cả thần thoại đều liên quan đến sự vật vận động. Hơn nữa, cách tiếp cận này đặt giả định thần thoại chống lại tính hiện đại, tính hợp lý và tính khoa học: Thần thoại giải thích thế giới (mục đích tốt đẹp hơn) nhưng kể từ khi khoa học lãnh trách nhiệm này, dẫn đến thần thoại theo định nghĩa sẽ gắn liền với các xã hội không có khoa học.[49] Sang đến thế kỷ 20, nhiều lý thuyết phản bác điều này.[48] Ví dụ, dựa trên cơ sở phân tích cấu trúc thần thoại, Lévi-Strauss viết "Logic thần thoại cũng chặt chẽ như logic khoa học hiện đại, và [...] sự khác biệt nằm ở chỗ, không phải chất lượng của quá trình tư duy mà trong bản chất sự vật áp dụng điều đó".[50] Dù vậy, nhận thức chuyển đổi thần thoại sang lý trí trong thế kỷ 20 vẫn còn nhiều mâu thuẫn dai dẳng.[51]

Nghi lễ

Mối liên hệ giữa nghi lễ và thần thoại đã được các nhà nghiên cứu ghi nhận từ lâu. Nghi lễ giống như kịch hóa một thần thoại, đến lượt thần thoại lại giải thích cho nghi lễ. Mối liên hệ này được thể hiện rõ ràng nhất trong thần thoại tôn giáo. Nhưng về bản chất quan hệ này còn có các ý kiến khác nhau. Đại diện các trường phái thần thoạitiến hóa tin rằng thần thoại (tín ngưỡng) có trước nghi lễ. Quan điểm này của J. Grimm, A. N. Afanasyev, E. Taylor, H. Spencer, J. Lippert và những người khác. Vào thập niên 1880, quan điểm trái ngược nảy sinh và nhanh chóng trở nên phổ biến nhờ W. Robertson-Smith, R. MaretteA. van Gennep. Theo R. Lowie, trong “thần thoại nguyên thủy”, “toàn bộ nghi lễ chỉ đơn giản được phóng chiếu vào quá khứ, giống như do một đấng siêu nhiên dạy dỗ hoặc người thiết lập nghi lễ được bí mật chứng kiến các đấng siêu nhiên thực hiện”.[52] Nhà văn học dân gian Nga N. Poznansky, người nghiên cứu thuật chú zagоvor dân gian, cho rằng phần chú ngữ bao hàm thành tố thần thoại "phát triển từ thuật phù thủy".[53] Theo hướng nghiên cứu chủ nghĩa Mác, vấn đề này được I. I. Skvortsov-Stepanov nghiên cứu và đặc biệt là công trình của Yu. P. Frantsev.[52] Trường phái về sau này chỉ ra rằng thần thoại phát triển có điểm khởi đầu là tôn giáo hoặc nghi lễ ma thuật.[54] Nhà dân tộc học Hoa Kỳ J. Fontenrose[55] và nhà văn hóa dân gian Liên Xô E. M. Meletinsky[56] chỉ trích lý thuyết nghi lễ mang tính phiến diện hoang đường. Lý thuyết thần thoại nghi lễ thịnh hành cho đến thập niên 1950, khi nhà khoa học Pháp C. Lévi-Strauss lên tiếng chống lại từ quan điểm lý thuyết cấu trúc luận về thần thoại. Ông viết về tính độc lập của thần thoại như một loại cấu trúc thuần túy logic, chỉ tuân theo các quy luật riêng của nó. Tuy nhiên, lý thuyết nghi lễ thần thoại vẫn tồn tại, mặc dù nhiều nhà nghiên cứu lưu ý rằng ảnh hưởng thần thoại ngược lại đối với nghi thức vẫn thường diễn ra. Theo Meletinsky, nghi lễ đại diện cho một khía cạnh trong phức hợp nghi lễ-thần thoại khá hiệu quả.[3]

James George Frazer

Học giả tôn giáo và dân tộc học người Anh J. Frazer trong tác phẩm The Golden Bough đã thu thập từ các mảnh ghép và tái tạo một hệ thống thần thoại cổ đại, về cơ bản là nông nghiệp, được xây dựng dựa trên các nghi lễ sùng bái khác nhau. Tôn giáo nông nghiệp cổ đại bao gồm các hành động ma thuật tác động lên đất đai cho cây trồng, lời cầu nguyện đến các vị thần bảo trợ cho nông nghiệp, và nhiều câu chuyện thần thoại (hầu hết đã mất) khác nhau về những vị thần này. Nghiên cứu của Frazer cho rõ ràng nhất sự kết hợp chặt chẽ giữa thần thoại và nghi thức sùng bái thần Osiris ở Ai Cập.[52]

Trong các Sách Phúc Âm có một số chủ đề được coi là những nghi lễ được thần thoại hóa. Vì vậy, câu chuyện Chúa Giêsu chịu báp-têm có thể chứa đựng chi tiết lịch sử nhưng căn bản đã đại diện cho một cơ sở thần thoại mới về nghi lễ truyền thống dùng nước thanh tẩy. Có nhiều ví dụ về sự tương đồng giữa nghi lễ trong dân gian và trong nhà thờ, chúng đều được bắt nguồn từ các câu chuyện trong sách Phúc Âm. Điều này dễ thấy trong các kỳ lễ theo lịch và lễ hội của các dân tộc Châu Âu. Cùng với các phong tục và nghi lễ bản địa (thường có nguồn gốc tiền Thiên Chúa giáo), có rất nhiều phần bày tỏ các chi tiết Phúc Âm như: thời Trung Cổ thần bí hóa cũng như làm cho tưng bừng Lễ Giáng Sinh, Sự khổ nạn của Chúa, Chúa vào thành Jerusalem cho đến Chúa Phục sinh đều trở thành truyền thống đặc trưng đến tận ngày nay. Trong hầu hết các trường hợp, các màn trình diễn tôn giáo ấy mất dần đi nghi thức nghiêm ngặt mà trở thành sự kiện vui vẻ cho dân chúng, rồi quay ngược lại biến thành phụng vụ chính thức trong nhà thờ.[52]

Tâm thức nguyên thủy

Nhà triết học Pháp Lucien Lévy-Bruhl (1857–1939) đương thời đã phản đối quan điểm thần thoại đối chiếu cổ điển và cho rằng suy nghĩ của người nguyên thủy cơ bản là khác biệt. Người nguyên thủy có tư duy đơn giản là phi logic. Quan điểm phương Tây nhìn nhận người nguyên thủy tự coi mình và tất cả thiên nhiên là một tổng thể thần bí, trong thực thể này đồng thời lại có thực thể khác. Không có chỗ cho sự khác biệt cá thể, từ đó người nguyên thủy nhận thức thế giới rất khác biệt. Đối với Lévy-Bruhl, triết học khi đó hoàn toàn trừu tượng nên tôn giáo chưa được bao hàm và tư tưởng thần thoại cũng vậy. Ông xem thần thoại không phải là nỗ lực đơn giản dùng trí tuệ để hiểu thế giới mà để giao tiếp với thế giới thông qua các động lực cảm xúc.[57]

Điều lệ xã hội

Phản ứng với quan điểm coi đặc tính thần thoại là căn nguyên tự nhiên, nhà nhân chủng học Ba Lan Bronisław Malinowski (1884-1942) cho rằng thần thoại thực sự như một loại điều lệ, định ước của xã hội.[58] Thần thoại là sự hợp lý hóa và hợp thức hóa các hiện tượng xã hội như truyền thống hay vương quyền: "Chức năng thần thoại (...) là củng cố và mang lại cho truyền thống một giá trị, vị thế lớn hơn bằng cách đưa nó trở lại cao hơn, tốt hơn, đẹp hơn lúc ban đầu."[59] Có thể thấy điều này qua Aeneis của Vergilius. Tuy nhiên, quan điểm này cũng theo chủ nghĩa phổ quát một cách nghiêng lệch và tiếp cận xã hội như một thể tĩnh tại mà bản chất xã hội lại không phải như vậy. Bởi đó, học trò của Malinowski là E. R. Leach nhận xét: "[Thần thoại] và nghi lễ là ngôn ngữ ký hiệu thể hiện đặc quyền và địa vị xã hội, ngôn ngữ này có tính tranh biện chứ không phải một âm hưởng hòa hợp."[60] Quan điểm cho rằng xã hội là động lực thúc đẩy thần thoại (hình thành) tạo cơ sở cho cách tiếp cận này, và do đó có liên quan đến quan điểm xã hội học Durkheim và Franz Boas.[61]

Biểu tượng tâm lý

Carl Gustav Jung

Một cách tiếp cận khác là theo hướng bản chất tâm lý hoặc phân tâm học chuyên sâu, trong đó thần thoại, cổ tích, diễn tả nghệ thuật và những thứ tương tự được coi là biểu hiện của các yếu tố bị kìm nén, ham muốn và sợ hãi trong tiềm thức. Sigmund Freud (1856-1939) thực hiện điều này trong Totem und Tabu (Totem và cấm kỵ). Ông lấy thần thoại Hy Lạp cho các lý thuyết phân tích tâm lý của mình, chẳng hạn như Phức cảm Ơ-đíp. Cách tiếp cận này cũng đã được áp dụng cho các thể loại văn học khác như truyện cổ tích[62] và tiểu thuyết hiện đại.[63]

Tuy nhiên nội dung chính của phương pháp nghiên cứu đến từ nhà tâm thần học Thụy Sĩ Carl Jung (1875-1961). Ông lưu ý rằng trong giấc mơ, tưởng tượng và biểu hiện sáng tạo của trẻ em có nhiều động khác nhau để xuất hiện liên tục ở cả người bệnh tâm thần và người bình thường. Hiện tượng này nói lên có một điều gì đó thiết yếu về tâm trí con người. Cũng giống như tất cả mọi người tương đồng về cơ thể, tâm trí cũng phải có một bản chất phổ quát chung. Tập thể vô thức này là những gì được phản ánh trong thần thoại và biểu tượng. Bằng cách nghiên cứu thần thoại và biểu tượng này, nguyên mẫu có thể được công thức hóa, mà Jung lấy cảm hứng từ tác phẩm của Bastian.[64] Do đó đối với Jung, thần thoại chủ yếu liên quan đến bối cảnh của từng cá nhân. Mục đích nghiên cứu tâm lý của Jung nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc về tiềm thức để người hiện đại có thể hiểu bản thân mình hơn.[65]

Tâm lý hóa thần thoại và những điều tương tự đã được phỏng theo nhiều. Nhà tâm lý học Erich Neumann (1906-1960) cố gắng đối chiếu tiến hóa ý thức với cơ sở truyền thống thần thoại.[66] Lấy cảm hứng từ thần thoại đối chiếu và tâm lý học phân tích, tâm lý học chiều sâu của Jung, nhà thần thoại học Joseph Campbell cho ra đời nhiều tác phẩm về thần thoại, tôn giáo đối chiếu và duy linh. Ý định của Campbell thể hiện trong The Hero with a Thousand Faces (Anh hùng nghìn mặt):

... để soi sáng sự thật ẩn giấu khỏi chúng ta bên dưới những hình tượng tôn giáo và thần thoại bằng cách ghép vô vàn mẫu không quá khó và để ý nghĩa cổ xưa tự nhiên xuất lộ. Những thầy dạy cổ biết về điều họ đã nói. Một khi chúng ta học được cách đọc ngôn ngữ biểu tượng của họ, thì chỉ cần tài năng của một nhà soạn hợp tuyển văn học là có thể nắm được những giảng dạy đó. Nhưng trước tiên phải học được ngữ pháp của biểu tượng, còn như chìa khóa giải mã bí ẩn này, tôi biết không có công cụ hiện đại nào tốt hơn phân tâm học.[67]
Nguyên văn
...to uncover some of the truths disguised for us under the figures of religion and mythology by bringing together a multitude of not-too-difficult examples and letting the ancient meaning become apparent of itself. The old teachers knew what they were saying. Once we have learned to read again their symbolic language, it requires no more than the talent of an anthologist to let their teaching be heard. But first we must learn the grammar of the symbols, and as a key to this mystery I know of no better modern tool than psychoanalysis.

Hiện tượng văn học

Ngoài việc đưa vào bối cảnh khoa học hoặc tôn giáo, thần thoại cũng được tiếp cận từ quan điểm văn học. Trong thời đại Victoria, các tác gia cổ điển như Jane Harrison, Gilbert Murray và Francis Cornford coi thần thoại là nguồn gốc của văn học. Dựa trên Frazer, Harrison và Murray cho rằng thần thoại lúc đầu chỉ đơn thuần mô tả nghi lễ nhưng về sau đã được văn học hóa.[68]

Trong nửa đầu thế kỷ 20, những cách tiếp cận mới theo hướng ngôn ngữ học trở nên thịnh hành, chịu ảnh hưởng của nhà triết học Ludwig Wittgenstein, nhà nhân chủng học Franz Boas và đặc biệt là nhà ngôn ngữ học Thụy Sĩ Ferdinand de Saussure. Những cách thức này cùng với chủ nghĩa hình thứcchủ nghĩa cấu trúc có chung nền tảng ngôn ngữ học và đặc điểm mang tính hình thức, hệ thống. Những quan điểm này được áp dụng rộng rãi xuyên suốt thế kỷ.[69]

Hình thức luận là sự phân tích kỹ càng các chuyện kể một cách hình thức. Viẹc này chủ yếu liên quan đến phân tích hình thức văn học cụ thể, trong đó nguồn gốc, tâm lý cùng với nhiều khía cạnh khác không được tính đến.[70] Chủ nghĩa hình thức Nga giữ vai trò đặc biệt quan trọng với những đại diện như Roman Jakobson và nhà cấu trúc luận Vladimir Propp.[71] Propp phân tích truyện cổ tích và kết luận rằng luôn tìm được những mẫu giống nhau. Ông thậm chí còn liệt kê được 31 mẫu chính thức, tạo nên hệ thống tổng hợp ổn định và phổ biến. Theo Propp, các hình mẫu này và những thành phần của chúng có thể đối chiếu độc lập không cần kể đến ngữ cảnh riêng. Một số thành tố nhất định cũng có thể được thay thế (một cách có hệ thống) theo thời gian, giúp cho cách tiếp cận này trở nên rõ ràng hơn. Việc nghiên cứu không nhất thiết phải bỏ qua các nguyên liệu thần thoại.[72]

Sản phẩm xã hội

Chủ nghĩa cấu trúc, giống như chủ nghĩa thực chứng, theo nhiều cách đối lập với các cách tiếp cận thông diễn học. Ý tưởng cốt lõi là khoa học xã hội và nhân văn nên được tiếp cận giống như khoa học tự nhiên. Chủ nghĩa cấu trúc có cơ sở ngôn ngữ học và triết học mạnh mẽ và cho rằng các hiện tượng xã hội được xác định một cách vô thức do các cấu trúc siêu cá thể hoặc hệ thống ký hiệu.[73] Các cấu trúc này hoạt động ngoài ý muốn cá nhân và hiện diện khắp mọi nơi. Trước thời Lévi-Strauss (xem bên dưới), cách tiếp cận chủ nghĩa cấu trúc có thể tìm thấy chủ yếu trong phân tích văn học nhưng cũng áp dụng trong thần thoại đối chiếu của nhà nghiên cứu Ấn-Âu Georges Dumézil (1898-1986). Trong nghiên cứu thần thoại Ấn-Âu đối chiếu, Dumézil tin rằng đã tìm thấy bằng chứng phân loại gốc Ấn-Âu là quyền tối cao, chiến binh và sự sinh sôi. Dumézil nhìn ra phân loại ba bên này trong thần thoại, nghi lễ tôn giáo và tổ chức chính trị xã hội.[74]

Claude Lévi-Strauss năm 2005

Nhà nhân chủng học có ảnh hưởng lớn là Claude Lévi-Strauss sử dụng ý tưởng chủ nghĩa cấu trúc để nghiên cứu dân tộc ký. Giống như Jung, quan điểm của Lévi-Strauss đề cao tiềm thức, tất cả khả năng và trải nghiệm cuối cùng đều được xác định và giới hạn do cấu trúc tâm trí con người.[75][76] Ông coi tổ chức xã hội, quan hệ họ hàng, huyền thoại và những thứ tương tự như ký hiệu phải được nghiên cứu và so sánh. Middleton phát biểu "Với Claude Lévi-Strauss, thần thoại là hệ thống có cấu trúc để tham chiếu trong đó tập hợp các quan hệ nội tại được dùng để ánh xạ cấu trúc tập hợp quan hệ khác, nội dung thì có thể biến đổi không ngừng và không quan trọng một cách tương đối."[77]

Phương pháp này đến với thần thoại học vào năm 1955. Thần thoại phải được phân tích và chia nhỏ ra các thành tố, sau đó mỗi thành tố được phân loại vào các chủ đề thông dụng. Nguyên tắc tạo thành ký hiệu cũng được xem xét. Sau khi đối chiếu, chủ đề, thông điệp và cấu trúc chính của thần thoại sẽ trở nên rõ ràng.[78] Điều này liên quan đến văn hóa và tâm trí con người.[79] Trong bộ 4 tập Mythologiques (1969-1981), Lévi-Strauss trình bày kỹ lưỡng ý tưởng và nghiên cứu về thần thoại của mình. Mục đích nghiên cứu là thiết lập phương pháp luận và logic thần thoại một cách chắc chắn.[80] Khác với Lévi-Bruhl, ông quan điểm rằng nền văn hóa "nguyên thủy" về cơ bản không khác "hiện đại" và cũng hoàn toàn logic.[75] Ví dụ, trong Mythologiques tập một Le Cru et le Cuit (Sống và chín), ông xem xét phân biệt giữa thực phẩm sống và nấu chín, tương đồng với sự khác biệt giữa yếu tố tự nhiên và yếu tố văn hóa trong xã hội, giữa thế tục và thiêng liêng trong tôn giáo, giữa khoảng lặng và tiếng động trong âm thanh. Những hình mẫu logic như vậy có thể tìm thấy trong thần thoại và cần thiết để hiểu rõ tâm trí con người trong nền văn hóa đang nói tới.[81] Cuối cùng, Lévi-Strauss coi thần thoại là nỗ lực chính đáng được kịch hóa dưới dạng chuyện kể để giải quyết những căng thẳng trong xã hội.[46]

Thần thoại đối chiếu

Từ giữa thế kỷ 19, các chuyên gia về thần thoại và văn học dân gian, đặc biệt là các nhà dân tộc học nhận thấy có nhiều điểm tương đồng giữa các truyền thống thần thoại khác nhau rải rác trên khắp thế giới. Họ tìm kiếm khuôn mẫu chung tương ứng trong nhiều nền văn hóa.[82] Bất chấp sự khác biệt về thời gian, địa điểm và bối cảnh văn hóa lịch sử, những điểm tương đồng ấy được xem xét nghiên cứu. Ví dụ, nhà khoa học Đức Adolf Bastian (1826-1905) đưa ra lý thuyết ý tưởng cơ bản phổ biến của nhân loại nói chung.[61]

Frazer mở rộng điều này trong The Golden Bough. Ông khám phá các mẫu khác nhau dựa trên tất cả các loại thần thoại, nghi lễ và dân gian truyền thống trải rộng trên toàn cầu. Hoặc ngược lại có thể lấy một thần thoại nhất định, rồi tìm kiếm những điểm tương đồng trong các truyền thống khác, từ đó đi đến một mô hình phổ quát. Điển hình của cách thức này có thể kể đến The Hero with a Thousand Faces (1949) của Joseph Campbell chịu ảnh hưởng từ Bastian. Tuy nhiên, phương pháp này đặt ra nghi vấn về tiêu chí chọn mẫu cũng như đoán định sai lầm. Tính địa phương đặc trưng cũng bị bỏ qua, và không xét đến yếu tố văn hóa xã hội ẩn chứa trong đó. Thực tế môi trường xung quanh thần thoại của một nhóm người cụ thể không được đưa vào đánh giá.[83] Nói chung, tiếp cận này bị coi là lỗi thời và không còn phổ biến trong nghiên cứu thần thoại nữa.[84]

Phương pháp thần thoại đối chiếu mới xuất hiện vào đầu thế kỷ 20 và vẫn còn tiếp tục phát triển. Nghiên cứu đương đại về nguồn gốc văn hóa lịch sử của thần thoại và mối quan hệ giữa các nền văn hóa của chúng cũng có tính chất liên ngành. Thần thoại đối chiếu không chỉ sử dụng thông tin văn học, lịch sử, khảo cổ, mà còn chú trọng cả ngôn ngữ như một phương tiện truyền tải thần thoại. Phương pháp này giúp khám phá chính xác việc trao đổi và phổ biến thần thoại giữa các nhóm không có quan hệ trực tiếp với nhau, cùng với chứng mình thần thoại nguyên thủy đã phân nhánh trong nhiều thiên niên kỷ thành các thần thoại khác nhau. Ví dụ, từ nguyên của tên gọi các vị thần có thể ám chỉ nguồn gốc và đặc điểm ban đầu. Những cái tên tương tự nhau cũng có thể chỉ ra mối quan hệ giữa các vị thần từ các nền văn hóa khác nhau. Một số lượng lớn công trình nghiên cứ theo cách thức này đã được thực hiện về thần thoại Proto-Semitic và Ấn-Âu.[85]

Chủ nghĩa bí truyền

Cách tiếp cận bí truyền (thuật ngữ và phân loại còn gây tranh cãi) bị giới học thuật coi là giả khoa học. Thần thoại được xem như những câu chuyện có thể chắt lọc thông tin lịch sử và truyền tải khôn ngoan bí truyền. Ví dụ như Mythen en hun esoterische betekenis (Thần thoại và ý nghĩa bí truyền) của Jan van Dijk (1933), cách tiếp cận gần gũi với Jung và Campbell nhưng không có gì hiện đại mới mẻ. Hoặc như người theo thuyết Hermeticism cổ đại cũng nhìn ra sự thật mới trong các đã nhìn thấy sự thật mới trong thần thoại, đặc biệt ở Ai Cập, ví dụ Isis được coi là ngụ ngôn sáng thế có liên hệ tới học thuyết siêu hình.[83]

Ví dụ điển hình khác thời hiện đại là ý tưởng của Erich von Däniken trong Chariots of the Gods (Chiến xa các vị thần) (1968), theo dấu vết tiếp xúc với các nền văn minh ngoài Trái đất trong các đồ tạo tác, kiến trúc và văn bản cổ đại. Hay như công trình The 12th Planet (1976) của Zecharia Sitchin (1920-2010) đề xuất rằng thần thoại Sumer cung cấp bằng chứng về hành tinh thứ 12 trong Hệ Mặt Trời tên là Nibiru, cư dân ở đó (anunnaki) đã đến thăm Trái đất trong quá khứ xa xôi. Bên ngoài giới học thuật vẫn còn tranh cãi về tính hợp lệ của những lý thuyết như vậy.[86]

Một cách giải thích đương đại về thần thoại như là dấu hiệu chủ yếu ám chỉ tự nhiên thiên văn học được phát triển trong tác phẩm của Giorgio de Santillana và Hertha von Dechend, với lập luận rằng các vị thần đều là những tinh tú quan sát được, những người lập luận rằng tất cả các vị thần đều là các vì sao, thường đi ngược với trường phái Jung như những điều do Campbell đưa ra.[87]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thần thoại học http://www.psylib.ukrweb.net/books/losew03/ http://www.bibliotekar.ru/mif/161.htm http://www.bibliotekar.ru/mif/173.htm http://www.bibliotekar.ru/mif/204.htm http://endic.ru/philosophy/Mifologija-1391.html http://istoriya-kino.ru/books/item/f00/s00/z000001... http://litresp.ru/chitat/ru/%D0%9F/pankin-s/istori... http://www.mirf.ru/Articles/art495.htm http://www.ruthenia.ru/folklore/meletinsky1.htm http://www.ruthenia.ru/folklore/meletinsky11.htm